Cải cách thể chế luôn là vấn đề được cộng đồng doanh nghiệp đặc biệt quan tâm, bởi đó là nền tảng để môi trường kinh doanh ngày càng minh bạch, công bằng và ổn định. Trong không khí hướng tới Ngày Pháp luật Việt Nam (9/11), câu chuyện cải cách thế chế và thực thi pháp luật càng có ý nghĩa thực tiển sâu sắc.
Dù đã đạt nhiều kết quả tích cực, tiến trình này vẫn còn những điểm nghẽn như thủ tục hành chính phức tạp, phạm vi ngành nghề kinh doanh có điều kiện quá rộng và hiệu quả thực thi chính sách chưa đồng đều. Để bàn sâu hơn về những văn đề này, Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinance đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Minh Thảo, Phó Trưởng ban Phát triển doanh nghiệp và Môi trường kinh doanh, Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính.
TS. Nguyễn Minh Thảo, Phó Trưởng ban Phát triển doanh nghiệp và Môi trường kinh doanh, Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính.- Thưa bà, quá trình cải cách thế chế thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, song vẫn còn không ít rào cản khiến môi trường kinh doanh chưa thật sự thông thoáng. Theo bà, những điểm nghẽn lớn nhất hiện nay nằm ở đâu, đặc biệt trong việc cải thiện và cắt giảm các điều kiện kinh doanh?
TS. Nguyễn Minh Thảo: Trong thời gian qua, cải cách thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh được Chính phủ xem là trọng tâm, với nhiều nỗ lực cắt giảm điều kiện kinh doanh và đơn giản hóa thủ tục hành chính. Tuy nhiên, thể chế vẫn là điểm nghẽn lớn cản trở sự phát triển năng động của doanh nghiệp - động lực chính của nền kinh tế.
Một trong những điểm nghẽn nổi bật là danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện vẫn quá rộng. Luật Đầu tư quy định doanh nghiệp chỉ phải đáp ứng điều kiện kinh doanh trong những ngành, nghề thuộc Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, nhưng thời gian qua, Danh mục này chỉ giảm về hình thức, trong khi thực tế phạm vi của nhiều ngành nghề không những không giảm mà còn có xu hướng mở rộng. Điều này tạo gánh nặng quy định đối với doanh nghiệp, khiến chi phí tuân thủ tăng, giảm cơ hội gia nhập thị trường, nhất là với doanh nghiệp nhỏ và khởi nghiệp.
Một số điều kiện kinh doanh còn mang tỉnh hình thức, thiếu cơ sở đánh giá về sự cần thiết hay hiệu quả. Mặc dù Nghị quyết 68 đã đặt mục tiêu cắt giảm 30% điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính, nhưng dường như mới dừng ở mục tiêu, việc thực hiện các giải pháp còn chậm, chưa có kết quả rõ ràng và cũng chưa có đánh giá về tác động thực chất tới doanh nghiệp.
Trong nhiều trường hợp, hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các địa phương, dẫn tới tạo dư địa tồn tại chi phí không chính thức. Mặt khác, hiệu quả thực thi chính sách chưa cao do thiếu sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương, cũng như giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
Để khơi thông nguồn lực, củng có niềm tin của doanh nghiệp, tháo gỡ những điểm nghẽn thế chế môi trường kinh doanh, quan trọng nhất là tinh thần cải cách phải được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, từ thiết kế chính sách đến thực thi, nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch, an toàn và khuyến khích tinh thần đổi mới sáng tạo.

- Nhiều doanh nghiệp phản ánh rằng dù chính sách pháp luật tiến bộ, nhưng khi thực thi tại cơ sở lại gặp khó khăn do cán bộ hiểu sai hoặc cố tình gây khó dễ. Bà đánh giá thế nào về vấn đề này?
TS. Nguyễn Minh Thảo: Đây cũng là tình trạng xảy ra ở nhiều nơi và trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, để nhìn nhận một cách toàn diện, chúng ta cần phân tích vấn đề này dưới nhiều chiều, thay vì chỉ quy trách nhiệm cho một bên.
Thứ nhất, vấn đề nằm ở chất lượng của quy định, chính sách. Chúng ta đã có nhiều văn bản được xây dựng theo hướng hiện đại, tiến bộ, cởi mở, thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải nội dung nào cũng rõ ràng, dễ hiểu và dễ áp dụng thống nhất. Có những quy định chưa đủ cụ thế, chưa rõ ràng, dẫn tới cách hiểu và vận dụng khác nhau giữa các địa phương, thậm chí giữa các cán bộ trong cùng một cơ quan. Điều này làm giảm hiệu lực và hiệu quả của chính sách.
Thứ hai, năng lực của đội ngũ cán bộ thực thi cũng là một yếu tố cần lưu tâm. Việc vận dụng pháp luật. không chỉ là tuân thủ quy định, mà còn đòi hỏi khá năng phân tích, đánh giá và giải thích chính sách phù hợp với từng tình huống thực tế. Trong nhiều trường hợp, cán bộ còn cứng nhắc, chưa đủ năng lực chuyên sâu để thực thi quy định pháp luật dựa trên nguyên tắc hiệu quả.
Thứ ba, yếu tố chủ quan trong khâu thực thì cũng không thể bỏ qua. Vẫn còn tình trạng cán bộ không hướng dẫn tận tâm, tận tình cho doanh nghiệp. Ở một số nơi, có thể vẫn tồn tại tỉnh trạng "diễn giải theo hướng làm khỏ" doanh nghiệp. Dù điều này không phố biến, nhưng chỉ cần một vài trường hợp cũng dễ dẫn tới tạo tâm lý e ngại, mất niềm tin trong cộng đồng doanh nghiệp.
Và cuối cùng, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng chính doanh nghiệp đôi khi cũng chưa thực sự năm vững các quy định pháp luật. Có những trường hợp doanh nghiệp triển khai thủ tục nhưng hiếu chưa đúng, hoặc chưa đầy đủ, dẫn đến việc tuân thủ không đạt yêu cầu. Khi đó, lỗi không hoàn toàn thuộc về phía cơ quan thực thi.
- Theo bà, để tháo gỡ điểm nghẽn này, cần có những giải pháp nào mang tính thực chất?
TS. Nguyễn Minh Thảo: Chúng ta chỉ có thể tháo gỡ được các điểm nghên khi xác định rõ nguyên nhân. Như tôi đã nói, có bốn nhóm nguyên nhân chính: chất lượng quy định, chính sách; năng lực thực thi của cán bộ còn hạn chế, một bộ phận cán bộ chưa tận tâm, thậm chỉ một số ít còn gây khó cho doanh nghiệp; và doanh nghiệp chưa hiểu rõ hoặc chưa thực hiện đầy đủ các quy định.
Giải pháp, vì vậy, cũng cần bảo đảm thực thi đồng bộ. Đó là: Nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, bảo đảm tính thống nhất, rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu, dễ thực thi. Cùng với đó, nâng cao chất lượng cán bộ, đặc biệt là về kỹ năng vận dụng pháp luật và giao tiếp với doanh nghiệp. Giám sát chặt chẽ khâu thực thi, xử lý nghiêm những trường hợp cố tình gây khó cho doanh nghiệp. Và cuối cùng, bản thân doanh nghiệp cần chủ động năng cao năng lực pháp lý để tuân thủ pháp luật tốt hơn và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

- Cải cách thế chế là một dòng chảy không ngừng, đòi hỏi sự cập nhật thường xuyên. Vậy theo bà, trong thời gian tới, cải cách thể chế ở Việt Nam nên tập trung ưu tiên vào những lĩnh vực nào?
TS. Nguyễn Minh Thảo: Đúng vậy, cải cách thể chế không thể dừng lại, mà phải là một quá trình liên tục, thích ứng với những thay đổi không ngừng của thực tiễn đời sống và kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy, cuộc sống luôn vận động nhanh hơn pháp luật. Rất nhiều mô hình kinh doanh, công nghệ, sản phẩm, dịch vụ mới xuất hiện trước, sau đó pháp luật mới được ban hành để điều chỉnh phù hợp.
Trong thời gian tới, cải cách thể chế ở Việt Nam nên tập trung vào hai nhóm trọng tâm chính:
Thứ nhất, tiếp tục tháo gỡ các điểm nghên thế chế đối với các hoạt động đầu tư - kinh doanh truyền thống. Đây là những tồn tại mà chúng ta đã nhận diện rõ: từ sự chồng chéo, thiếu thống nhất trong hệ thống pháp luật đến các bất cập về điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính rườm rà. Việc này cần được thực hiện một cách thường xuyên và thực chất hơn, tránh tình trạng “cải cách trên báo cáo" nhưng chưa thể hiện được hiệu quả trên thực tế.
Thứ hai, rất quan trọng, là hoàn thiện thể chế để kịp thời thích ứng với xu hướng mới, nhất là xu hướng kinh doanh dựa trên công nghệ. Chúng ta thấy rất rõ hiện nay có nhiều sáng kiến kinh doanh mới dựa trên ứng dụng công nghệ, chuyển đối số... vì thế nếu pháp luật không theo kịp, không chỉ gây cản trở cho đối mới sáng tạo, mà còn khiến chúng ta bỏ lỡ cơ hội phát triển.
Trong bối cảnh đó, chính sách cần có tư duy mở, linh hoạt; cho phép thí điểm, thử nghiệm với một số mô hình kinh doanh mới. Tránh tình trạng vì chưa có quy định rõ mà quản lý theo hướng "cấm đoán", dần đến triệt tiêu sáng tạo. Thay vào đó, chúng ta nên áp dụng các cơ chế đặc thù, sandbox (cơ chế thử nghiệm) hoặc hành lang pháp lý linh hoạt để tạo điều kiện cho các mô hình mới phát triển.
Đây cũng chính là tỉnh thần của cải cách thể chế hiện đại: quản trị dựa trên rủi ro và khuyến khích đối mới, sáng tạo. Thế chế cần bám sát và theo kịp thực tiễn, qua đó khơi dậy tỉnh thần kinh doanh sáng tạo và thúc đẩy phát triển bền vững.
Trân trọng cảm ơn bà!