Xuất khẩu gạo Việt Nam không chịu tác động tiêu cực từ việc Philippines tạm ngưng nhập khẩu

Việc nhiều doanh nghiệp đã và đang đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường và chủng loại gạo xuất khẩu đã giảm phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống, đồng thời hạn chế rủi ro từ biến động chính sách. Vì vậy, tác động thị trường từ sự kiện Philippines ngưng nhập gạo là có, nhưng không cao.

Một thương nhân tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết động thái tạm dừng nhập khẩu gạo của Philippines không phải là tin tốt cho các nhà xuất khẩu, vì đây là thị trường lớn nhất của gạo Việt Nam. Song phản ứng thị trường cho cho thấy, quyết định của Philippines không có tác động lớn đến thị trường lúa gạo Việt Nam.

Ngoài ra, chính sách nhập khẩu của Philippines vốn thay đổi thường xuyên và doanh nghiệp Việt đã quen ứng phó. Về bản chất, Philippines vẫn thiếu gạo và phải nhập khẩu số lượng lớn để bảo đảm an ninh lương thực, chỉ tạm hạn chế nhập trong thời gian thu hoạch để bảo vệ nông dân trong nước.

xuat-khau-gao-philipin-1754874102.jpegDù Philippines ngưng nhập khẩu gạo trong 2 tháng, các doanh nghiệp dự báo gạo thơm vẫn có thể tiếp tục tăng thêm 10 - 15 USD/tấn
 

Theo các doanh nghiệp xuất khẩu, để tránh rủi ro nếu hàng đến sau ngày 1/9 sẽ không được thông quan, các hợp đồng đã ký sẽ được ưu tiên giao trước, còn hợp đồng mới khó kịp tiến độ. Mặc dù việc tạm dừng nhập khẩu gạo của Philippines sẽ tác động nhưng cũng không quá tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam, do hơn 70% lượng gạo Hè Thu đã tiêu thụ. Trong khi đó, giai đoạn tháng 9 - 10 gần như không có thu hoạch, nên áp lực bán ra không lớn.

Mặt khác, chất lượng gạo Việt Nam đang ở mức cao, với khoảng 70% là gạo thơm, giá gạo xuất khẩu mặt hàng này đạt trên 500 USD/tấn, dù Philippines ngưng nhập khẩu gạo trong 2 tháng các doanh nghiệp dự báo gạo thơm vẫn có thể tiếp tục tăng thêm 10 - 15 USD/tấn.
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu gạo 7 tháng năm 2025 đạt 5,5 triệu tấn với 2,81 tỷ USD, tăng 3,1% về khối lượng nhưng giảm 15,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2024. Giá gạo xuất khẩu bình quân 7 tháng năm 2025 ước đạt 514 USD/tấn, giảm 18,4% so với cùng kỳ năm 2024.

Philippines là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với thị phần chiếm 42,6%. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm trước, giá trị xuất khẩu gạo sang thị trường Philippines giảm 13,5%; trong khi các thị trường khác như: Ghana tăng 53,5%, Cote d'Ivoire (Bờ Biển Ngà) tăng 96,6%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh nhất ở thị trường Bangladesh với mức tăng 188,2 lần.

Điều này cho thấy, nhiều doanh nghiệp cũng đang đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường và chủng loại gạo xuất khẩu, nhằm giảm phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống, hạn chế rủi ro từ biến động chính sách.

Theo Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, tuần qua, giá lúa khô loại IR 50404 ở Đồng Tháp là 7.000 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg, Vĩnh Long là 6.600 đồng/kg...; với lúa OM 18, tại Cần Thơ là 7.400 đồng/kg; Đồng Tháp là 7.100 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg…; lúa IR 5451, tại Cần Thơ là 7.100 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; Vĩnh Long là 6.700 đồng/kg…
Lúa Jasmine, tại Cần Thơ là 8.400 đồng/kg; Đồng Tháp là 7.200 đồng/kg, tăng 200 đồng/kg. ST 25 tại Cần Thơ vẫn là 9.500 đồng/kg; OM 6976 tại Đồng Tháp là 7.000 đồng/kg…

Theo cập nhật của Sở Nông nghiệp và Môi trường An Giang, giá một số loại lúa tươi được thương lái thu mua như: lúa IR 50404 ở mức từ 5.700 - 5.900 đồng/kg; lúa OM 380 từ 5.700 - 5.900 đồng/kg; lúa OM 5451 dao động mốc 5.900 - 6.000 đồng/kg; OM 18 và Nàng hoa từ 6.000 - 6.200 đồng/kg…

Với mặt hàng gạo trên thị trường bán lẻ tại An Giang, gạo thường có giá từ 13.000 - 14.000 đồng/kg; gạo thơm thái hạt dài từ 20.000 - 22.000 đồng/kg; gạo Jasmine từ 16.000 - 18.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 16.000 đồng/kg, gạo Nàng Hoa 21.000 đồng/kg; gạo Hương Lài 22.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; gạo Sóc thường dao động ở mốc 17.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.

Giá gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 8.500 - 8.600 đồng/kg, gạo thành phẩm IR 504 từ 9.500 - 9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM 380 từ 8.150 - 8.250 đồng/kg; gạo thành phẩm OM 380 dao động ở mức 8.800 - 9.000 đồng/kg.

Trên thị trường gạo châu Á, giá gạo của Ấn Độ trong tuần qua đã giảm xuống mức thấp nhất trong ba năm, do đồng rupee suy yếu và nguồn cung dồi dào. Loại gạo đồ 5% tấm của Ấn Độ được báo giá ở mức từ 369 - 374 USD/tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 8/2022, giảm so với mức từ 375 - 380 USD/tấn của tuần trước. Loại gạo trắng 5% tấm của Ấn Độ có giá từ 360 - 368 USD/tấn.

Trong khi đó, giá gạo 5% tấm của Thái Lan giữ ổn định ở mức 370 USD/tấn, so với biên độ 370 - 375 USD/tấn của tuần trước. Một thương nhân tại Bangkok cho biết người mua đang trì hoãn đưa ra quyết định do thông báo của Ấn Độ về việc sẽ xả kho tới 7 triệu tấn gạo, trong khi động thái của Philippines cũng đang gây thêm áp lực cho thị trường.