Đó là các nội dung đáng chú ý trong Tờ trình dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) của Ngân hàng Nhà nước gửi Quốc hội xem xét. Dự thảo luật có 13 chương, 195 điều. Cổng thông tin Ngân hàng Nhà nước cho biết, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng thừa ủy quyền của Thủ tướng vừa ký Tờ trình gửi Quốc hội dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi.
Dự thảo đã thiết kế các công cụ để bảo đảm an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng với các biện pháp thanh tra, giám sát của Ngân hàng Nhà nước có sự tham gia của Thanh tra Chính phủ để quản lý, kiểm soát hoạt động tín dụng, chống thao túng, lợi ích nhóm, sở hữu chéo, kịp thời phát hiện và có chế tài xử lý nghiêm các vi phạm. Ngân hàng Nhà nước sẽ nắm các hoạt động bao gồm cả quản lý, phê duyệt nhân sự lãnh đạo của các ngân hàng thương mại cổ phần; hạn chế quyền quyết định trong hoạt động kinh doanh của người quản lý, người điều hành hoặc đình chỉ người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước cũng sửa đổi, bổ sung dự thảo luật theo hướng điều chỉnh quy định về hạn chế cấp tín dụng, giới hạn cấp tín dụng, quy định về giới hạn góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng rõ ràng, phù hợp hơn để hạn chế sở hữu chéo, sân sau và lạm quyền cấp tín dụng cho một nhóm cổ đông.
Dự thảo quy định, cá nhân không sở hữu quá 3% vốn điều lệ (hiện nay là 5%). Cổ đông và người có liên quan không được sở hữu quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng, giảm 5% so với quy định hiện hành. Cổ đông lớn của một ngân hàng và người có liên quan được sở hữu tối đa 5% vốn điều lệ của ngân hàng khác. Với quy định dư nợ cấp tín dụng tối đa với một khách hàng dự kiến giảm từ mức 15% như hiện nay xuống còn 10%. Tổng dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan tối đa 15% vốn tự có, giảm so với quy định là 25%.
Theo VOV, dự thảo luật sửa đổi, bổ sung quy định về trường hợp kiểm soát đặc biệt cùng với việc quy định bổ sung trường hợp quyết định không đặt vào kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước quyết định áp dụng biện pháp can thiệp sớm (Điều 144).
Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng sẽ không bị áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm thiếu dự trữ bắt buộc và không tuân thủ tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định trong giai đoạn bị rút tiền hàng loạt. Cùng với đó, để xử lý sự cố khách hàng, tổ chức tín dụng được vay đặc biệt Ngân hàng Nhà nước, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam và tổ chức tín dụng khác với lãi suất 0%/năm với thời hạn như cho vay đặc biệt khác (Điều 151).
Ngân hàng Nhà nước sẽ xem xét, quyết định thực hiện các biện pháp hỗ trợ thanh khoản riêng với tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt gồm mua giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng trên nghiệp vụ thị trường mở; thực hiện các giao dịch ngoại tệ với tổ chức tín dụng; tái cấp vốn với tổ chức tín dụng.
Ngân hàng Nhà nước được phép sử dụng khoản dự phòng rủi ro để xử lý đối với các khoản phải thu không thu hồi được phát sinh từ các biện pháp xử lý khi tổ chức tín dụng bị rút tiền hàng loạt.