Theo đó, tại báo cáo của Ban IV chỉ rõ: “doanh nghiệp đang trải qua bối cảnh đặc biệt khó khăn”. Cụ thể, trong tổng số 9.556 doanh nghiệp tham gia khảo sát, có 82,3% doanh nghiệp dự kiến giảm quy mô, tạm ngừng kinh doanh hoặc ngừng kinh doanh trong các tháng còn lại của năm 2023. Trong đó, tỷ lệ doanh nghiệp dự kiến ngừng kinh doanh, chờ giải thể là 10,9%; dự kiến tạm ngừng kinh doanh là 12,4%; dự kiến giảm mạnh quy mô là 38,5% và dự kiến giảm nhẹ quy mô là 20,5%.
Trong số các doanh nghiệp còn hoạt động năm 2023, có 71,2% dự kiến giảm quy mô lao động trên 5%, trong đó có 22,2% dự kiến giảm trên 50%. Có 80,7% doanh nghiệp dự kiến giảm doanh thu trên 5%, trong đó tỷ lệ giảm trên 50% doanh thu là 29,4%.
Đáng chú ý, niềm tin của doanh nghiệp đối với kinh tế vĩ mô, kinh tế ngành trong bối cảnh này đặc biệt thấp khi có đến 81,4% doanh nghiệp được khảo sát có đánh giá tiêu cực/ rất tiêu cực về triển vọng kinh tế Việt Nam trong các tháng còn lại của năm 2023. Các đánh giá rất tích cực/tích cực chỉ chiếm 4,2% các doanh nghiệp được khảo sát.
Cũng theo khảo sát, có đến 83,7% doanh nghiệp đánh giá triển vọng kinh tế ngành năm 2023 là tiêu cực/ rất tiêu cực, trong đó có 29,6% là rất tiêu cực. Và trong bức tranh “tối màu” chung đó, doanh nghiệp ngành Xây dựng; các doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa; doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước; doanh nghiệp tại TP HCM thể hiện mức độ đánh giá tiêu cực hơn.
Kết quả khảo sát cũng chỉ ra các khó khăn, thách thức lớn nhất doanh nghiệp đang phải đối mặt. Đứng đầu là khó khăn về đơn hàng, chiếm 59,2%; khó khăn trong tiếp cận vốn vay 51,1%; Thực hiện thủ tục hành chính và đáp ứng các quy định của pháp luật (45,3%); và lo ngại về nguy cơ hình sự hóa các giao dịch kinh tế 31,1%.
Để thoát khó khăn, doanh nghiệp đã đề xuất nhiều giải pháp xử lý. Đầu tiên, các doanh nghiệp kiến nghị giảm chi phí để tăng sức cạnh tranh. Chẳng hạn, Chính phủ có thể kéo dài thời hạn giảm 2% thuế VAT đến hết năm 2025 thay vì cuối năm nay. Chi phí lao động cũng cần giảm hơn thông qua hạ phí công đoàn, bảo hiểm xã hội và xem xét thay đổi ngưỡng chịu thuế thu nhập cá nhân.
Các doanh nghiệp đồng thời đề nghị một số cơ chế đặc biệt, như cho phép họ được hoàn thuế trong vòng 3 tháng sau khi xuất khẩu đơn hàng và kết hợp các biện pháp thanh tra, hậu kiểm để kiểm soát rủi ro, chống gian lận thuế. Hay giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với các đơn vị xuất khẩu về mức 5-10%.
Tiếp theo là tăng khả năng tiếp cận vốn vay cho nền kinh tế. Doanh nghiệp cho rằng nên có một gói tín dụng ưu đãi cho các ngành, lĩnh vực sản xuất chủ lực, trong đó dành riêng nguồn lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. "Không nên siết tín dụng với phân khúc bất động sản liên quan xây dựng nhà ở xã hội, bệnh viện, trường học, hạ tầng sản xuất", theo báo cáo của Ban IV.
Kế đến là cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Theo đó, nhà chức trách cần hạn chế kiểm tra (không quá một lần mỗi năm), không ban hành thêm văn bản mới nhằm tránh gánh nặng về thuế, phí, thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Nhà chức trách cũng cần sớm hoàn thành điều tra các vụ án hiện tại và đưa ra nghị quyết không hình sự hóa các quan hệ kinh tế.
Cuối cùng, để ứng phó với các khó khăn từ bên ngoài, doanh nghiệp đề xuất Chính phủ tăng đàm phán thương mại để đa dạng hóa thị trường đầu vào (đặc biệt với các ngành may mặc, da giày, đồ gỗ...) và đầu ra để giảm sự phụ thuộc các thị trường truyền thống. Các cơ quan chức năng cũng cần tăng năng lực dự báo về các xu hướng kinh tế, cập nhật các ưu đãi phát triển và cảnh báo rủi ro.