Thị trường bất động sản khu công nghiệp Việt Nam năm 2025: Thực trạng và triển vọng phát triển

Năm 2025, bất động sản khu công nghiệp tiếp tục là điểm sáng của thị trường Việt Nam. Với lợi thế về vị trí địa lý, chính sách thu hút đầu tư và hạ tầng ngày càng hoàn thiện, phân khúc này đang thu hút mạnh mẽ sự quan tâm từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Những tiềm năng phát triển đang mở ra nhiều cơ hội cho thị trường trong giai đoạn tới..

Bài viết phân tích thực trạng thị trường bất động sản khu công nghiệp Việt Nam 06 tháng đầu năm và đưa ra triển vọng, khuyến nghị cho năm 2025. Kết quả nghiên cứu cho thấy thị trường bất động sản khu công nghiệp Việt Nam còn rất nhiều dư địa tăng trưởng trong năm 2025, hứa hẹn sẽ tiếp tục duy trì đà phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế Việt Nam.

Giới thiệu

Hiện nay, bất động sản khu công nghiệp (BĐS KCN) Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn và tạo dựng niềm tin mạnh mẽ về sự tăng trưởng trong mắt nhà đầu tư quốc tế. Trước làn sóng dịch chuyển công nghiệp, BĐS liền kề các KCN đang được hưởng lợi theo. Năm 2024, thể chế thị trường BĐS được cập nhật. Thị trường đã có những chuyển biến và bước vào một chu kỳ phát triển rất nhiều văn bản pháp luật liên quan đến thị trường BĐS được sửa đổi, bổ sung, thông qua và đi vào vận hành trong thực tiễn. Hệ quả là thị trường BĐS vượt qua được giai đoạn khó khăn 2022-2023 và tạo ra bước phát triển mới cùng cả nền kinh tế.

Bài viết này đi sâu phân tích tình hình phát triển thị trường BĐS 6 tháng đầu năm 2025 dưới các khía cạnh khác nhau liên quan cung - cầu; đồng thời, đưa ra triển vọng thị trường BĐS KCN năm 2025. Từ đó, kiến nghị một số giải pháp để thị trường BĐS KCN năm 2025 và tầm nhìn 2030 phát triển bền vững, đóng góp vào sự phát triển chung của toàn nền kinh tế. Kết quả nghiên cứu cho thấy thị trường BĐS KCN Việt Nam còn rất nhiều dư địa tăng trưởng trong năm 2025, hứa hẹn sẽ tiếp tục duy trì đà phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế Việt Nam.

1. Tình hình thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025

1.1. Bối cảnh hoạt động thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025

Năm 2025, nền kinh tế thế giới được dự báo tiếp tục xu hướng tăng trưởng chậm lại so với giai đoạn trước đại dịch. Theo WB, tăng trưởng GDP toàn cầu được dự báo đạt 2,7% trong năm 2025, giảm so với mức 3,0% của năm 2024. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF, tháng 4/2025) dự báo GDP toàn cầu sẽ giảm mạnh từ mức 3,3% (năm 2024) xuống 2,8% (năm 2025) và 3% (năm 2026), thấp hơn lần lượt 0,5 và 0,3 điểm % so với dự báo trong tháng 01/2025, trong đó: tăng trưởng GDP của các nước phát triển giảm xuống còn 1,4% (năm 2025) và 1,5% (năm 2026); tăng trưởng của các nước đang phát triển cũng giảm mạnh từ mức 4,3% (năm 2024) xuống còn 3,7% (năm 2025) và 3,9% (năm 2026).

Ảnh minh hoạ.

Tuy vậy, rủi ro triển vọng kinh tế toàn cầu sẽ khó đoán định do căng thẳng thương mại và chính sách thuế quan, do đó, IMF đã xem xét bổ sung hai kịch bản gồm: (i) Kịch bản dự báo trước ngày 02/4/2025, GDP toàn cầu sẽ tăng 3,2% trong năm 2025 - 2026, mỗi năm giảm 0,1% so với dự báo đưa ra hồi tháng 01/2025; (ii) Kịch bản dự báo sau ngày 09/04/2025, GDP toàn cầu sẽ tăng 2,8% trong năm 2025 và tăng khoảng 2,9% trong năm 2026.

Kinh tế trong nước tiếp tục khởi sắc. Kết quả tăng trưởng này đã vượt mục tiêu đặt ra cho quý I/2025 của kịch bản tăng trưởng cả năm 2025 là 6,5 - 7,0% tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 08/01/2025 của Chính phủ, nhưng chưa đạt mục tiêu phấn đấu của kịch bản tăng trưởng năm 2025 đạt 8,0% do thế giới biến động nhanh, nhiều bất ổn đã ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội nước ta.

Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế: (i) Khu vực dịch vụ tăng 7,7%, đóng góp 53,74% nhờ các hoạt động thương mại, du lịch duy trì đà tăng trưởng cao; (ii) Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,42%, đóng góp 40,17% nhờ một số sản phẩm công nghiệp chủ lực tăng khá, đáp ứng nhu cầu đơn hàng mới của doanh nghiệp; (iii) Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,74%, đóng góp 6,09%.

Bên cạnh đó, bối cảnh chính sách đối với thị trường bất động sản năm 2025 ghi nhận kết quả tích cực. Việc Luật Đất đai, Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh bất động sản đi vào hiệu lực được kỳ vọng sẽ tháo gỡ những điểm nghẽn về cơ chế, pháp lý cho doanh nghiệp và khuyến khích sử dụng tài nguyên đất hiệu quả hơn. Đồng thời, việc định giá đất theo nguyên tắc thị trường sẽ xóa bỏ tình trạng hai giá, làm cơ sở hợp lý cho việc thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước, xác định giá bất động sản, tính toán chi phí – hiệu quả đầu tư dự án...

1.2. Tình hình thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam 6 tháng đầu năm 2025

BĐS KCN được đánh giá vẫn nằm trong giai đoạn phát triển mới với nhiều tiềm năng nhờ vào làn sóng chuyển dịch nhà máy sản xuất của các DN, tập đoàn đa quốc gia. Khi dòng vốn FDI chuyển động theo chiều hướng năm sau cao hơn năm trước, đã và đang mở ra tương lai sáng lạn cho phân khúc BĐS KCN của Việt Nam.

Theo Cục Thống kê (2025), đến hết tháng 06/2025, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 8,90 tỷ USD, tăng 34,7% so với cùng kỳ năm trước. Đáng chú ý, ngành BĐS đứng thứ hai với 2,39 tỷ USD, tăng 44,1%, chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư, vẫn duy trì được vị trí vốn có trong bối cảnh thị trường BĐS đang phục hồi nhưng vẫn còn nhiều thách thức, khó khăn.

Vốn FDI tăng trưởng mạnh đã giúp cho phân khúc BĐS KCN tiếp tục nắm giữ vai trò chủ đạo trên thị trường. Cụ thể, tính đến hết tháng 3/2025, cả nước có 465 KCN được thành lập, trong đó 305 khu đã đi vào hoạt động. Đáng chú ý, các “ông lớn” đang tiếp tục “cuộc đua” mở rộng quỹ đất công nghiệp, chỉ tính riêng quý I/2025, cả nước có thêm 15 dự án đầu tư hạ tầng KCN được Chính phủ điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư với diện tích đạt 4.930 ha, gấp gần 3 lần quý I/2024 và bằng 54% cả năm 2024. Miền Bắc tiếp tục là tâm điểm của thị trường BĐS, khi chiếm tỷ trọng lần lượt là 60% và 52% số lượng dự án và tổng diện tích KCN thành lập mới trong quý I/2025.

Mức hấp thụ của các KCN tại các thị trường (TT) cấp 1 miền Bắc trong ba tháng đầu năm 2025 đạt 200 ha và tỷ lệ lấp đầy duy trì ở mức 79,7%; tăng 0,8 điểm % so với cùng kỳ năm trước. Nhiều dự án được khởi công trong quý như nhà máy Lite-On ở Quảng Ninh (sản xuất linh kiện điện tử, tổng vốn đầu tư: 690 triệu USD), hay nhà máy Victory Giant Technology ở Bắc Ninh (sản xuất bảng mạch in, tổng vốn đầu tư 540 triệu USD).

Giá thuê bình quân tại Quý 1/2025 đạt 139 USD/m2/kỳ hạn còn lại, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng giá thuê tới từ sự điều chỉnh tăng giá thuê của các KCN có mức lấp đầy được cải thiện. Đối với thị trường kho xưởng xây sẵn, nhiều dự án quy mô tiếp tục ra mắt tại khu vực phía Bắc trong quý đầu năm, tập trung ở thị trường Bắc Ninh và Hưng Yên. Với việc nguồn cung mới tiếp tục ra mắt, tỷ lệ lấp đầy trung bình tại thị trường cấp 1 miền Bắc đạt 83,9% đối với nhà kho xây sẵn, giảm 0,1 điểm % so với quý IV/2024 và 88,6% với nhà xưởng xây sẵn, giảm 1,4 điểm % so với quý trước.

Về mặt bằng giá thuê, giá thuê kho xưởng xây sẵn tại thị trường cấp 1 trung bình đạt ngưỡng 4,7 và 4,9 USD/m2/tháng. Mức giá thuê kho duy trì tăng 2,3% theo năm, trong khi giá thuê xưởng tăng 2,6% theo năm trước những diễn biến ổn định của thị trường. Về mặt nhu cầu, thị trường ghi nhận những giao dịch thuê xưởng lớn tới từ các công ty sản xuất điện tử, thiết bị thể thao; trong khi đó, nhóm công ty logistics là nhóm ngành chính dẫn dắt nguồn cầu nhà kho xây sẵn tại phía Bắc.

Về dài hạn, những cải cách tích cực của nhà nước để tinh gọn bộ máy và đơn giản hóa thủ tục đầu tư, cũng như chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng với hàng loạt dự án đang lên kế hoạch và triển khai như dự án tuyến đường sắt Hải Phòng – Hà Nội – Lào Cai, và các dự án thuộc tuyến cao tốc Bắc Nam sẽ là nền tảng quan trọng để Việt Nam duy trì sức hút đối với nhà đầu tư.

1.3. Một số vấn đề thị trường bất động sản công nghiệp

Bên cạnh những kết quả đạt được như nêu ở trên, nhiều khó khăn trong phát triển KCN cần được sớm khắc phục như sau:

Một là, thể chế, chính sách về KCN chưa đảm bảo tính ổn định, thống nhất, đồng bộ và chưa có sự đột phá để phát huy vai trò và đóng góp của các khu trong phát triển kinh tế - xã hội. Tính pháp lý về quy định khung chưa cao (mới dừng lại ở cấp Nghị định). Chất lượng, hiệu quả quy hoạch phát triển KCN chưa đáp ứng yêu cầu trong khi công tác xây dựng quy hoạch tổng thể phát KCN cần phải có tầm nhìn tổng thể, dài hạn trong nền kinh tế; đặt trong mối tương quan với các ngành kinh tế khác, với vùng và với xã hội.

Hai là, khó khăn trong hoàn thành mục tiêu lợi nhuận chưa được khắc phục triệt để. Kế hoạch kinh doanh của nhiều doanh nghiệp BĐS mới hoàn thành một nửa kế hoạch doanh thu và lợi nhuận cả năm. Tại báo cáo ngành BĐS mới đây của Công ty Cổ phần Xếp hạng tín nhiệm Đầu tư Việt Nam (VIS Rating) phân tích, doanh số bán hàng tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đến quý IV/2024 đã tăng 48% so với quý trước, nhưng doanh thu và lợi nhuận của các chủ đầu tư tại hai thành phố lớn của cả nước đã giảm lần lượt 20% và 43% so với cùng kỳ năm trước. Vì vậy, hơn 60% chủ đầu tư sẽ không về đích đúng kế hoạch.

Ba là, loại hình phát triển của các KCN chậm được đổi mới. KCN tại Việt Nam vẫn chủ yếu phát triển theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực với mục tiêu chính là tăng diện tích lấp đầy. Trong vài năm gần đây, một số loại hình KCN sinh thái, KCN chuyên ngành, KCN phụ trợ đã bước đầu hình thành tại một số địa phương, song số lượng còn hạn chế.

Bốn là, chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư vào KCN chưa đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu; liên kết, hợp tác trong và giữa các khu với nhau, giữa KCN với khu vực bên ngoài còn hạn chế. Tỷ suất thu hút đầu tư trung bình có gia tăng qua các thời kỳ nhưng vẫn tương đối thấp. Thống kê từ VIS Rating cho thấy, khoảng 22.000 tỷ đồng trái phiếu do chủ đầu tư phát hành sẽ đáo hạn vào cuối năm 2024 phần lớn đều đã chậm trả gốc, lãi ở các kỳ trước.

3. Triển vọng và khuyến nghị

3.1. Bối cảnh bất động sản công nghiệp năm 2025

Cơ hội

Thứ nhất, làn sóng FDI tiếp tục tích cực. Dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục tích cực theo chiến lược “Trung Quốc +1”. Chúng tôi đánh giá vốn FDI thực hiện có thể tiếp tục tăng trưởng nhưng mức tăng sẽ chậm lại ở mức 2-3% trong giai đoạn 2025 – 2027 khi trong những năm vừa qua, Việt Nam cũng liên tục vươn lên, cải thiện chuỗi giá trị trong giai đoạn chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.

Nhiều tập đoàn công nghệ lớn đang có kế hoạch cụ thể để dịch chuyển dây chuyền sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam như Apple, Luxshare, Pegatron, Wistron… JPMorgan ước tính Apple sẽ chuyển 65% AirPod, 20% iPad, 20% Apple Watch và 5% tỷ lệ sản xuất MacBook sang Việt Nam cuối năm 2025. Một số nhà sản xuất điện tử lớn cũng đang có kế hoạch chuyển tới Việt Nam trong những năm tới như Dell, Google, Microsoft , Lenovo,…

Thứ hai, chi phí sản xuất cạnh tranh. Chi phí sản xuất trung bình ở mức rẻ hơn so với các đối thủ trong khu vực là điểm cộng lớn giúp thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam. Chi phí nhân công sản xuất tương đối cạnh tranh, thấp hơn cả Ấn Độ và Indonesia (theo số liệu ước tính của Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật bản JETRO), thu hút doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực thâm dụng lao động như: dệt may, da giày, lắp ráp điện tử.

Ngoài ra, chi phí cho thuê đất KCN, chi phí xây dựng hay điện sản xuất của Việt Nam cũng ở mức thấp cạnh tranh với các quốc gia khác. Chẳng hạn như theo JLL, mặt bằng giá thuê đất KCN tại Indonesia từ 190 – 240 USD/m2/chu kỳ thuê còn tại Việt Nam, giá cho thuê tại thị trường miền Bắc trung bình ở mức dưới 190 USD/m2/chu kỳ thuê.

Thứ ba, Việt Nam tham gia vào nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA). Bên cạnh lợi thế về chi phí sản xuất, Việt Nam là một trong những quốc gia tham gia nhiều FTA nhất trong khu vực, cùng đó là mối quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện với nhiều đối tác thương mại lớn trên thế giới.

Thứ tư, cơ sở hạ tầng tiếp tục được đẩy mạnh phát triển. Trong những năm gần đây, Chính phủ liên tục tập trung vào việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông và sẽ tiếp tục là định hướng chủ đạo trong giai đoạn 2025 – 2030 với nhiều dự án quan trọng. Điều này sẽ giúp tăng tính kết nối giữa các vùng, giảm bớt chi phí logistics. Theo ADB, tỷ lệ đầu tư cơ sở hạ tầng trên GDP của Việt Nam trong những năm gần đây nằm trong nhóm cao nhất ở châu Á, đạt mức trung bình là 5,7%.

Thách thức

Thứ nhất, ảnh hưởng từ chính sách của Hoa Kỳ. Mặc dù việc Tổng thống Donald Trump dự kiến áp dụng mức thuế suất cao với Trung Quốc mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam, tuy nhiên song hành với đó cũng tiềm ẩn rủi ro. Việt Nam hiện tại đứng thứ ba trong danh sách các nước có thâm hụt thương mại với Mỹ (số liệu năm 2023), trường hợp Việt Nam nằm trong nhóm bị áp dụng mức thuế suất cao có thể làm giảm sức hấp dẫn khi thu hút vốn đầu tư. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của Tổng thống Trump, Việt Nam với vị thế ngoại giao khác với Trung Quốc đã thực hiện những cuộc đàm phán với chính quyền ông Trump để giảm nhẹ các biện pháp thắt chặt.

Thứ hai, cạnh tranh từ các nước trong khu vực. Hai quốc gia có sự cạnh tranh lớn về thu hút FDI hiện nay với Việt Nam là Indonesia và Ấn Độ khi đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nước ngoài như ưu đãi về thuế quan, thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng cùng với chi phí nhân công ở mức trung bình. Nếu Việt Nam không tận dụng tốt lợi thế của mình có thể đánh mất sự cạnh tranh với các quốc gia này.

Thứ ba, thuế tối thiểu toàn cầu. Việt Nam đã ban hành Nghị quyết chính thức áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu 15% đối với các công ty đa quốc gia từ ngày 01/01/2024, theo đó có thể sẽ làm mất đi những ưu đãi thuế mà các doanh nghiệp đang được áp dụng. Mặc dù vậy, Chính phủ cũng đang có kế hoạch sử dụng nguồn thu thuế bổ sung này để hỗ trợ cho các doanh nghiệp FDI đáp ứng yêu cầu để giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài.

Thứ tư, hỗ trợ pháp lý tác động chậm hơn dự kiến. Mặc dù Chính phủ thời gian vừa qua đã đẩy mạnh ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho ngành, tuy nhiên việc “thẩm thấu” thường có độ trễ, nên những tác động có thể chậm hơn dự kiến

3.2. Triển vọng

Thị trường bất động sản khu công nghiệp phía Bắc

Giai đoạn 2025-2027, thị trường BĐS KCN phía Bắc dự kiến sẽ đón nhận khoảng 971.000 m² diện tích nhà xưởng xây sẵn. Các đơn vị phát triển nhà xưởng xây sẵn đáng chú ý đóng góp vào nguồn cung trong tương lai bao gồm: BW Industrial, CNC Tech, Indochina Kajima và Frasers Property.

Xét về vị trí, tỉnh Vĩnh Phúc dẫn đầu trong nguồn cung tương lai với tỷ lệ đóng góp 38%. Bên cạnh đó, khoảng 4.000 ha nguồn cung dự kiến sẽ gia nhập thị trường trong giai đoạn 2025-2027. Tuy nhiên, nhiều khu công nghiệp đang có dấu hiệu bị trì hoãn do vấn đề giải phóng mặt bằng và đền bù, điều này có thể làm chậm tiến độ ra mắt của các dự án đến năm 2025, 2026 và các năm tiếp theo.

Thị trường bất động sản khu công nghiệp phía Nam

Giai đoạn 2025-2027, khoảng 1,6 triệu m² nguồn cung nhà kho xây sẵn dự kiến sẽ gia nhập thị trường, với Đồng Nai và Long An dẫn đầu về nguồn cung lần lượt là 53% và 31%. Trong bối cảnh thị trường khó khăn, xu hướng chuyển đổi nhà kho thành nhà máy hoặc cung cấp loại hình kho xưởng xây theo yêu cầu có khả năng sẽ tiếp tục trong tương lai gần, với giá thuê dự kiến sẽ ổn định trong năm tới.

Với những trợ lực từ môi trường kinh tế - vĩ mô năm 2025, phân khúc BĐS KCN sẽ tiếp tục có triển vọng tích cực, khi các công ty lớn đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng và sản xuất tại Việt Nam. Các KCN và nhà xưởng xây sẵn sẽ được hưởng lợi từ xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng và đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia. Giá thuê và tỷ lệ lấp đầy tại các khu vực sẽ tiếp tục được cải thiện nhờ chính sách đầu tư linh hoạt và nhu cầu từ các ngành công nghiệp, đặc biệt là ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) cùng với công nghệ.

Bên cạnh đó, các nhà đầu tư quốc tế đang ngày càng quan tâm đến Việt Nam nhờ vào sự ổn định của chính sách kinh tế vĩ mô và tiềm năng tăng trưởng của thị trường BĐS KCN.

3.3. Khuyến nghị

Thứ nhất, đối với các Bộ, ngành: 

Liên bộ gồm Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, cùng một số bộ ngành khác liên quan, phối hợp với chính quyền địa phương hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở..., bảo đảm phù hợp bối cảnh sát nhập địa giới hành chính trên phạm vi cả nước kể từ ngày 01/07/2025.

Bên cạnh đó, tiếp tục rà soát, tháo gỡ các hạn chế, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật theo thẩm quyền, kịp thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với các vấn đề vượt thẩm quyền. Đẩy mạnh hoạt động của Tổ công tác theo Quyết định số 1435/QĐ-TTg ngày 17/11/2022 của Thủ tướng Chính phủ, kịp thời hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn vướng mắc về thủ tục pháp lý; đôn đốc các địa phương giải quyết khó khăn, vướng mắc của các dự án bất động sản.

Đẩy nhanh các dự án cơ sở hạ tầng năng lượng quy mô lớn. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII), ưu tiên các dự án đầu tư và hướng tới phát triển năng lượng bền vững. Việt Nam tập trung phát triển các khu công nghệ cao, đặc biệt là Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC), nhằm tạo nền tảng cho các tập đoàn nước ngoài đầu tư, sản xuất tại Việt Nam.

Đồng thời, giải quyết thách thức nâng cao tay nghề cho lao động lực lượng lao động sẽ nâng cao vị thế của Việt Nam là điểm đến đầu tư, thu hút các tập đoàn công nghệ lớn đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và sản xuất tại Việt Nam. Tăng cường chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn các ngân hàng thương mại để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, dự án bất động sản công nghiệp tiếp cận được nguồn vốn tín dụng. Trong đó, nghiên cứu, đề xuất và triển khai thực hiện giải pháp về tái cấu trúc nợ tín dụng liên quan đến các dự án KCN, khu chế xuất, khu kinh tế của doanh nghiệp.

Thứ hai, đối với doanh nghiệp:

Doanh nghiệp chủ động rà soát về thủ tục pháp lý nêu cụ thể các khó khăn, vướng mắc của từng dự án để đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết theo đúng chức năng, thẩm quyền. Hoàn thiện khung chính sách, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu khắt khe của chuyên ngành này.

Tái cấu trúc, cơ cấu lại danh mục dự án, sản phẩm để đảm phù hợp với khả năng triển khai thực hiện của doanh nghiệp và điều kiện thực tế của thị trường. Rà soát, cơ cấu lại nguồn vốn đặc biệt là nguồn vốn tín dụng để tập trung triển khai và hoàn thành dứt điểm từng dự án tránh đầu tư dàn trải, dở dang, đảm bảo phương án trả nợ vay tín dụng và nợ trái phiếu doanh nghiệp.

Đồng thời, điều chỉnh lại phân khúc thị trường, giá bất động sản một cách thích hợp với từng loại phân khúc, đảm bảo tính thanh khoản, tạo dòng vốn để duy trì hoạt động, thực hiện dự án. Chủ động đề xuất các phương án xử lý hài hòa lợi ích và nghiên cứu áp dụng các ứng dụng công nghệ sản xuất mới nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, rút ngắn thời gian thi công để giảm giá thành sản xuất.

Kết luận

BĐS KCN năm 2025 mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn và mức phục hồi không đồng đều trên các phân khúc, sẽ ghi nhận những động thái tích cực nhiều hơn tiêu cực cả về tổng cung và tổng cầu, cả đầu vào và đầu ra, cả vĩ mô và vi mô, trước mắt và trung hạn trong chính sách và thực tiễn điều hành, kinh doanh... sẽ tiếp tục sôi động; kéo theo sự gia tăng nhu cầu vật liệu xây dựng và lao động... Tất cả sẽ có tác động tích cực, tăng niềm tin và sức mạnh cho thị trường BĐS KCN và lan toả tới các ngành nghề khác trong nền kinh tế quốc gia.

Tài liệu tham khảo

1. ABS (2024), Báo cáo ngành BĐS KCN trước ngưỡng cửa bứt phá

2. Trần Kim Chung (2024), Thị trường bất động sản Việt Nam năm 2024 và triển vọng năm 2025, Kỷ yếu Hội thảo Diễn biến thị trường, giá cả ở Việt Nam năm 2024 và dự báo 2025, 114-125

3. Cục Thống kê (2025), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2024

4. FiinGroup (2023), Navigating Drivers and Risks for Vietnam’s Economic Outlook for 2024

5. Hội Môi giới Bất động sản Việt Nam (VARS, 2024), Thị trường bất động sản Việt Nam quý III/2024: Tăng nhiệt hay Tạo nhiệt, https://vars.com.vn/tin-tuc/thong-cao-bao-chi-cong-bo-bao-cao-thi-truongbat-dong-san-viet-nam-quy-32024-tang-nhiet-hay-tao-nhiet-n1732

6. Võ Thị Vân Khánh, Nguyễn Minh Phong (2024), Điểm sáng kinh tế & thị trường bất động sản năm 2025, Kỷ yếu Hội thảo Diễn biến thị trường, giá cả ở Việt Nam năm 2024 và dự báo 2025, 126-138

7. Quốc hội (2023a), Luật Nhà ở số 27/2023/QH15, ngày 27/11/2023

8. Quốc hội (2023b), Luật Kinh doanh bất động sản số 29/2023/QH15, ngày 28/11/2023

9. Quốc hội (2024), Luật Đất đai số 31/2024/QH15, ngày 18/01/2024

10. Vũ Thị Huyền Trang (2025), Kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước các tháng đầu năm 2025: Rủi ro, thách thức và một số đề xuất, kiến nghị, https://tapchinganhang.gov.vn/kinh-te-vi-mo-the-gioi-va-trong-nuoc-cac-thang-dau-nam-2025-ru-i-ro-thach-thuc-va-mot-so-de-xuat-kien-nghi-16005.html

Website:

11. https://batdongsan.com.vn

12. https://vneconomy.vn/

13. https://cafef.vn/

PGS. TS. Nguyễn Thị Hà - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế - Tài chính, Học viện Tài chính

ThS. Lê Vũ Thanh Tâm - Viện Kinh tế - Tài chính, Học viện Tài chính

ThS. Đinh Lê Hạnh - Tập đoàn Đinh Lê