Khắc phục bất cập trong quản lý chất lượng sản phẩm và nhãn hàng hóa

Nhiều bất cập trong quản lý chất lượng và ghi nhãn hàng hóa đang gây khó khăn cho doanh nghiệp và thiếu minh bạch với người tiêu dùng. Dự thảo Nghị định mới được kỳ vọng sẽ khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu quả quản lý và thúc đẩy hội nhập.

Thời gian qua, những bất cập, tồn tại trong quy định hiện hành và thực tiễn triển khai Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (CLSPHH) cho thấy nhiều vấn đề cần tiếp tục được hoàn thiện cả về pháp lý lẫn thực thi. Trước hết, công tác quản lý nhóm sản phẩm hàng hóa thuộc nhóm 2 chưa dựa trên cơ sở khoa học về rủi ro. Tiêu chí phân loại còn mang tính định tính, cảm tính, thiếu phương pháp đánh giá định lượng và chưa có sự thống nhất giữa các bộ, ngành trong việc xác định sản phẩm thuộc nhóm 2, dẫn đến tình trạng chồng chéo, thiếu đồng bộ trong quản lý.

Thứ hai, hiện chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia tích hợp giữa các lĩnh vực liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Các cơ quan kiểm tra không chia sẻ thông tin về vi phạm, gây ra tình trạng kiểm tra lặp lại hoặc bỏ sót nguy cơ, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý. Thứ ba, công tác hậu kiểm chủ yếu vẫn dựa vào hồ sơ giấy tờ, thiếu trang thiết bị hiện đại, chưa ứng dụng công nghệ số và chưa có khả năng truy xuất nguồn gốc nhanh chóng. Thứ tư, lực lượng kiểm tra chất lượng hiện nay chủ yếu là kiêm nhiệm, thiếu tính chuyên nghiệp, chưa có quy định pháp lý rõ ràng về vị trí, chức năng và tiêu chuẩn năng lực của kiểm soát viên chất lượng, dẫn đến công tác giám sát, kiểm tra còn hạn chế.

Bên cạnh đó, cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp còn manh mún, chưa thực chất, chưa được phân loại theo ngành hàng hoặc mức độ rủi ro. Chính sách chưa khuyến khích chuyển đổi số hoặc áp dụng tiêu chuẩn quốc tế; các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ gặp khó khăn khi tiếp cận hỗ trợ do quy trình phức tạp, thiếu nguồn lực.

Quy trình chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp giữa các bộ, ngành cũng còn bất cập, chưa thống nhất, tiêu chí chưa rõ ràng, một số trường hợp thiếu minh bạch, trong khi năng lực thực tế của các tổ chức được chỉ định không được đánh giá định kỳ, chưa có cơ chế hậu kiểm chặt chẽ. Việc chỉ định còn mang tính cục bộ, thiếu cạnh tranh, làm giảm động lực nâng cao chất lượng của các tổ chức này.

Về ghi nhãn hàng hóa, hiện chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm ghi nhãn trong trường hợp tổ chức, cá nhân đặt gia công sản xuất. Theo quy định hiện hành, hàng hóa sản xuất trong nước bắt buộc phải ghi tên, địa chỉ cơ sở sản xuất trên nhãn. Tuy nhiên, trong trường hợp doanh nghiệp thuê gia công, bên đặt hàng chịu trách nhiệm về hàng hóa nhưng không được phép ghi tên trên nhãn, trong khi cơ sở gia công phải ghi tên, gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm lộ thông tin bí mật sản xuất, ảnh hưởng đến lợi ích thương mại. Ngoài ra, chưa có quy định rõ ràng về cách ghi xuất xứ đối với sản phẩm chỉ thực hiện các công đoạn đơn giản tại Việt Nam như lắp ráp, phối trộn, đóng gói, dán nhãn.

Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp nhập nguyên liệu từ nhiều quốc gia, chỉ thực hiện phối trộn, đóng gói tại Việt Nam nhưng ghi trên nhãn “Đóng gói tại Việt Nam” mà không ghi rõ xuất xứ nguyên liệu, gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng và ảnh hưởng đến cạnh tranh lành mạnh. Tình trạng này ngày càng phổ biến, không chỉ với sản phẩm mì chính mà còn có thể xảy ra với nhiều nhóm hàng hóa khác.

Để khắc phục những bất cập trên và thể chế hóa các nội dung, tư tưởng mới trong quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa và ghi nhãn, Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá và quy định về nhãn hàng hóa đã đưa ra một loạt quy định mới có tính hệ thống và khả thi. Cụ thể, Điều 4 và Điều 5 thiết lập cơ sở pháp lý cho việc phân loại rủi ro sản phẩm, áp dụng theo chuẩn quốc tế ISO/IEC 31010. Danh mục sản phẩm có rủi ro trung bình và cao sẽ do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì xây dựng, kèm theo báo cáo đánh giá rủi ro và thuyết minh lý do ban hành.

Ảnh minh họa.

Điều 6, 8 và 9 quy định việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tích hợp thông tin giữa các bộ, ngành, sử dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn nhằm truy xuất nguồn gốc, phân tích xu hướng rủi ro và cảnh báo sớm. Điều 7 và 10 quy định về việc đầu tư phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia, bao gồm phòng thử nghiệm, tổ chức chứng nhận, giám định, hiệu chuẩn đạt chuẩn quốc tế. Dự thảo khuyến khích khu vực tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ kỹ thuật, ưu tiên ứng dụng công nghệ số để chuẩn hóa và tự động hóa quy trình quản lý. Điều 11 quy định chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp xuất khẩu chủ lực trong việc áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, truy xuất nguồn gốc, thử nghiệm và chứng nhận hợp chuẩn hợp quy.

Các điều 13 đến 16 thiết lập cơ chế tổ chức lực lượng kiểm tra chuyên trách, quy định rõ vị trí pháp lý, nhiệm vụ, tiêu chuẩn năng lực, được trang bị phương tiện kỹ thuật và đào tạo chuyên môn bài bản. Các điều 17 đến 22 quy định về ứng dụng công nghệ số trong quản lý chất lượng, bao gồm sử dụng AI, IoT, phân tích dữ liệu lớn phục vụ hậu kiểm, cảnh báo nguy cơ, lựa chọn ngẫu nhiên hàng hóa để kiểm tra. Điều 23 đến 26 yêu cầu bắt buộc truy xuất nguồn gốc với sản phẩm rủi ro cao, thông qua mã QR, mã truy vết theo TCVN 13274, gắn với hệ thống cảnh báo và giám sát của cơ quan quản lý.

Từ Điều 73 đến Điều 79, Dự thảo quy định tiêu chí và quy trình chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp một cách minh bạch, thống nhất giữa các bộ, ngành, bổ sung quy định về đánh giá định kỳ, hậu kiểm và công khai kết quả đánh giá trên hệ thống dữ liệu quốc gia, đồng thời khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức đánh giá. Điều 84 và 86 quy định giảm nhẹ thủ tục hành chính đối với hàng hóa nhập khẩu có mức độ rủi ro trung bình, cho phép lựa chọn giữa tự công bố hợp quy hoặc công bố dựa trên chứng nhận. Nếu hàng hóa không thay đổi về quy chuẩn kỹ thuật hoặc không có cảnh báo, doanh nghiệp không phải công bố lại cho từng lô hàng. Việc kiểm tra áp dụng cơ chế hậu kiểm dựa trên phân tích rủi ro và dữ liệu chia sẻ, thay vì kiểm tra tại cửa khẩu.

Khoản 3, 4 Điều 3 và các Điều 40, 43, 55 đến 58 quy định về ghi nhãn điện tử, bao gồm định nghĩa, đối tượng áp dụng và quy trình đăng ký qua hệ thống elabel.gov.vn. Nhãn điện tử được phép thay thế nhãn vật lý đối với hàng hóa rủi ro thấp, còn hàng hóa rủi ro trung bình hoặc cao vẫn phải ghi một số nội dung nhất định trên nhãn vật lý. Khoản 5, 6 Điều 44 bổ sung trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa trên nền tảng thương mại điện tử, yêu cầu công khai nhãn hàng hóa (bao gồm cả nhãn điện tử nếu có), khai báo đầy đủ thông tin, bảo đảm hàng hóa giao đến tay người tiêu dùng có nhãn hợp pháp. Các nền tảng thương mại điện tử có trách nhiệm giám sát, lưu trữ và kết nối dữ liệu với cơ quan quản lý nhà nước. Khoản 2 Điều 44 và khoản 4 Điều 47 quy định rõ về việc ghi nhãn đối với hàng hóa gia công: bên đặt hàng phải ghi tên và địa chỉ của mình, chịu trách nhiệm về nội dung nhãn hàng hóa, trong khi cơ sở gia công không bắt buộc thể hiện thông tin trên nhãn.

Cuối cùng, khoản 6, 7, 8 Điều 47 và khoản 3 Điều 50 quy định chi tiết cách ghi xuất xứ đối với sản phẩm chỉ thực hiện công đoạn đơn giản tại Việt Nam như đóng gói, lắp ráp, phối trộn. Trong trường hợp nguyên liệu nhập khẩu từ nhiều quốc gia, bắt buộc phải liệt kê tên các quốc gia theo tỷ lệ tương ứng. Thông tin này có thể thể hiện bằng nhãn điện tử để bảo đảm minh bạch và thuận tiện trong quản lý.

Dự thảo Nghị định là bước hoàn thiện quan trọng nhằm khắc phục các bất cập hiện hành, nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa và đảm bảo minh bạch, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người tiêu dùng.